Trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại

#044 | Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường: Phải có thiệt hại

#044 | Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường: Phải có thiệt hại

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty M (Nguyên đơn) ký hợp đồng với Công ty T (Bị đơn) để thi công công việc chống thấm cho một tòa nhà. Sau đó hai Bên có tranh chấp và một bên yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, yêu cầu bồi thường thiệt hại không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, không hiếm khi gặp trường hợp một bên cho rằng bên kia đã vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng được chấp nhận không khi không chứng minh được thiệt hại? Trong vụ việc trên, Bị đơn đã thông báo cho Nguyên đơn biết là Bị đơn chấm dứt hợp đồng. Nguyên đơn cho rằng “đây là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật” nên Bị đơn “phải bồi thường thiệt hại” cho Nguyên đơn “bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp” mà Nguyên đơn phải chịu do lỗi của Bị đơn gây ra cũng như khoản lợi mà Nguyên đơn đáng ra được hưởng. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “Căn cứ vào Hồ sơ Vụ tranh chấp, trả lời câu hỏi của Hội đồng Trọng tài về việc yêu cầu Nguyên đơn cung cấp các bằng chứng để làm cơ sở chứng minh việc Bị đơn gây thiệt hại trực tiếp cho Nguyên đơn và Nguyên đơn phải chịu do Bị đơn gây ra và khoản lợi trực tiếp mà Nguyên đơn đáng lẽ được hưởng, nhưng Nguyên đơn đã không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào để chứng minh Bị đơn đã gây thiệt hại trực tiếp cho Nguyên đơn. Như vậy, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại của Nguyên đơn đối với Bị đơn chủ yếu chỉ căn cứ vào ngôn từ trong hợp đồng và giải thích theo suy luận của Nguyên đơn là không thuyết phục, không phù hợp với quy định của pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do vậy, yêu cầu này của Nguyên đơn chưa có cơ sở pháp lý để Hội đồng Trọng tài chấp nhận”. Cũng trong vụ việc trên, Bị đơn cho rằng Nguyên đơn vi phạm hợp đồng gây thiệt hại nên yêu cầu Nguyên đơn bồi thường. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “để buộc Nguyên đơn bồi thường thiệt hại, Bị đơn phải chứng minh (i) Nguyên đơn vi phạm hợp đồng; (ii) có thiệt hại thực tế và hành vi vi phạm hợp đồng của Nguyên đơn là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Khi xem xét yêu cầu này của Bị đơn, Hội đồng Trọng tài nhận thấy: thứ nhất , Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng (mặc dù đã hoàn thành khối lượng công việc theo hợp đồng nhưng phạm vi chống thấm mà Nguyên đơn thi công còn có thấm dột – điều này đã được Nguyên đơn thừa nhận); thứ hai, theo quy định tại khoản 2, Điều 303 Luật Thương mại năm 2005, muốn được bồi thường thiệt hại thì phải chứng minh “có thiệt hại thực tế” xảy ra. Tại các Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, Bị đơn không cung cấp được bất cứ bằng chứng nào chứng minh việc Nguyên đơn gây thiệt hại trên thực tế cho Bị đơn để làm căn cứ yêu cầu bồi thường”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài khẳng định “chưa có đủ cơ sở để Hội đồng Trọng tài tin rằng thiệt hại trên thực tế đã xảy ra để chấp nhận yêu cầu này của Bị đơn”. Đối với tranh chấp thương mại, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường đã được quy định tại Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Trong vụ việc trên, chúng ta thấy tồn tại yêu cầu bồi thường thiệt hại và, trong yêu cầu thứ hai (của Bị đơn), chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài xác định có hành vi vi phạm hợp đồng. Mặc dù vậy, trong cả hai trường hợp, Hội đồng Trọng tài đều từ chối yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ở đây, nguyên nhân chính dẫn đến từ chối yêu cầu bồi thường là do bên yêu cầu không chứng minh được thiệt hại (một trong những điều kiện để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại). Do đó, khi cho rằng mình bị vi phạm và yêu cầu bồi thường thiệt hại, doanh nghiệp cần chuẩn bị kỹ chứng cứ, nhất là chứng cứ về sự tồn tại của thiệt hại trong thực tế. Nếu không chuẩn bị kỹ chứng cứ như vừa nêu, yêu cầu bồi thường thiệt hại có nguy cơ không được chấp nhận như chúng ta đã thấy.

#043 | Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường: Phải có vi phạm

#043 | Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường: Phải có vi phạm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) xác lập hợp đồng mua bán với Công ty Hà Lan (Bị đơn – Bên bán). Sau đó, Bên mua yêu cầu Bên bán bồi thường thiệt hại do giao hàng không đúng chủng loại. Tuy nhiên, yêu cầu này không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp một bên trong hợp đồng cho rằng bên kia vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong điều kiện nào, yêu cầu này được chấp nhận? Trong vụ việc trên, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa số 1661 và hợp đồng số 1663. Ngày 31/05/2013, toàn bộ 30 công-ten-nơ hàng về đến cảng Hải Phòng. Sau khi bốc dỡ hàng để thực hiện kiểm dịch và mở tờ khai hải quan điện tử vào ngày 03/06/2013, Nguyên đơn cho rằng hàng bị giao sai chủng loại so với hợp đồng và yêu cầu Bị đơn bồi thường thiệt hại. Sau khi xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các Bên là pháp luật Việt Nam [1] , Hội đồng Trọng tài cho rằng “thông qua các chứng cứ trong hồ sơ cũng như các trình bày của Nguyên đơn, Nguyên đơn đã thực hiện thanh toán cho hai lô hàng bằng L/C qua Ngân hàng N. Nguyên đơn đã không thực hiện quyền từ chối nhận hàng nếu lô hàng sai chủng loại, mà trên thực tế đã tổ chức tiếp nhận, bốc dỡ toàn bộ lô hàng về kho bãi của mình. Đồng thời, trong khi chưa đạt được một thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với người có thẩm quyền của Bị đơn về phương thức giải quyết lô hàng có tranh chấp, Nguyên đơn đã đơn phương chỉ định tổ chức giám định lô hàng trong tình trạng hàng hóa đã bị bốc dỡ, không nguyên kiện. Do đó, không có cơ sở để xác định Bị đơn giao sai chủng loại các lô hàng là gỗ Bạch Dương theo hai hợp đồng số 1661/2013 và 1663/2013. Từ các căn cứ trên, Hội đồng Trọng tài xét thấy chưa có đủ căn cứ xác định hàng hóa do Bị đơn giao cho Nguyên đơn là sai chủng loại, không phù hợp với hợp đồng (…). Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của Nguyên đơn: do Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết, đồng thời Nguyên đơn cũng không chứng minh được các thiệt hại xảy ra là tổn thất thực tế, trực tiếp mà Nguyên đơn phải chịu do Bị đơn gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Căn cứ Điều 302 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài xét thấy không có căn cứ pháp lý để tuyên buộc Bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn”. Như vậy, yêu cầu bồi thường thiệt hại của Bên mua không được chấp nhận và lý do chính của việc không chấp nhận này là do chưa có cơ sở để khẳng định Bên bán đã vi phạm hợp đồng: Theo Hội đồng Trọng tài, “do Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết”. Hướng giải quyết của Hội đồng Trọng tài được lý giải như sau: Đối với tranh chấp thương mại, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường đã được quy định tại Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Với quy định trên, điều kiện đầu tiên để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường là bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại “có hành vi vi phạm hợp đồng”, tức “là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này” (khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005). Trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài cho rằng “Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết”. Do đó, chưa đủ cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Bên bán phát sinh nên yêu cầu bồi thường thiệt hại không được chấp nhận. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp rút ra bài học rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của họ không thể phát sinh nếu họ không có vi phạm hợp đồng. Đồng thời doanh nghiệp yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng biết rằng yêu cầu của họ không thể được chấp nhận nếu chưa chứng minh được rằng đối tác của họ đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.   [1] “Căn cứ Điều 13 của hợp đồng 1661 và hợp đồng 1663, các Bên thỏa thuận luật pháp áp dụng là luật của Việt Nam. Căn cứ khoản 1 Điều 22 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC và khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết Vụ tranh chấp”.

#042 | Quyền định đoạt về lãi chậm thanh toán

#042 | Quyền định đoạt về lãi chậm thanh toán

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty A (Nguyên đơn - Bên bán) và Công ty P (Bị đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán trong đó thỏa thuận trong trường hợp chậm thanh toán thì Bên mua phải chịu lãi suất theo mức lãi suất của Ngân hàng V. Khi giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài tính lãi suất đến ngày giải quyết tranh chấp với mức lãi là 7,5%/năm. Bài học kinh nghiệm : Trong vụ việc trên, Nguyên đơn đã giao hàng và Bị đơn đã nhận hàng nhưng chưa trả hết tiền. Theo Hội đồng Trọng tài, có “đầy đủ chứng cứ chứng minh Bị đơn còn nợ 140.626.197 VND”. Về việc chấp nhận yêu cầu trả nợ gốc, không có điều gì đặc biệt ở đây. Vấn đề đáng quan tâm còn lại là tiền lãi mà bên mua phải trả cho bên bán do chậm thanh toán được xác định như thế nào. * Định đoạt về mức lãi Theo hợp đồng, nếu bên mua chậm thanh toán tiền hàng thì sẽ phải chịu lãi suất trả chậm theo mức lãi suất của Ngân hàng V trong thời điểm chậm thanh toán. Như vậy, các bên đã định đoạt (song phương) mức lãi theo mức lãi suất của Ngân hàng V. Thực ra, việc định đoạt song phương này là phù hợp với quy định của pháp luật áp dụng cho hợp đồng. Cụ thể, đó là Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 với nội dung “trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Luật dự liệu mức lãi suất áp dụng cho chậm thanh toán nhưng chỉ áp dụng khi không “có thỏa thuận khác” và việc các bên thỏa thuận mức lãi của Ngân hàng V là phù hợp với quy định vừa nêu. Thỏa thuận như vừa nêu là hợp pháp và cần được chấp nhận trên cơ sở Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng” và “Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Loại thỏa thuận như vậy sẽ thuận lợi cho các bên trong việc xác định mức lãi trong trường hợp chậm thanh toán và doanh nghiệp nên tận dụng quyền định đoạt này để dự liệu quan hệ của mình để tránh rủi ro từ việc xác định “lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường”. Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại VIAC cho thấy loại thỏa thuận này được chấp nhận. Chẳng hạn, đối với thỏa thuận “ tiền lãi nợ quá hạn đối với số tiền chậm thanh toán tương ứng với thời gian chậm thanh toán với mức lãi suất bằng 150% lãi suất tiền gửi có kỳ hạn tương ứng được Ngân hàng V công bố vào thời điểm thanh toán ”, theo một Phán quyết trọng tài của Hội đồng Trọng tài thuộc VIAC, “căn cứ theo Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005 đã được dẫn chiếu ở trên, thì thỏa thuận này của các Bên cần phải được tôn trọng”. Thực tế, Nguyên đơn yêu cầu “lãi suất nợ quá hạn là 7,5%/năm” và Hội đồng đã tính lãi chậm trả trên cơ sở mức lãi 7,5%/năm. Để đạt được kết quả này, Hội đồng Trọng tài cho rằng “Hợp đồng có quy định mức lãi suất áp dụng tính chậm thanh toán được công bố bởi Ngân hàng V và trên thực tế, lãi suất Ngân hàng V trong khoảng thời gian chậm thanh toán luôn cao hơn 5%/năm và lãi suất nợ quá hạn luôn cao hơn 7,5%/năm”. Ở đây, mức lãi suất theo định đoạt “song phương” là cao hơn 7,5%/năm nhưng Nguyên đơn yêu cầu mức lãi thấp hơn là 7,5%/năm và được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Hướng như vậy tôn trọng sự định đoạt của người được trả lãi. Thực ra, hưởng lãi là quyền của bên bị chậm thanh toán và Luật cũng như thỏa thuận đã ấn định mức lãi nhưng mức lãi này vẫn nằm trong khả năng định đoạt của người bị chậm thanh toán. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng người được hưởng lãi không được định đoạt theo hướng cao hơn so với quy định hay với thỏa thuận mà chỉ được định đoạt ở mức thấp hơn vì nếu họ định đoạt ở mức cao hơn một cách đơn phương thì quyền lợi của đối tác sẽ bị ảnh hưởng nên sẽ không được chấp nhận. Như vậy, doanh nghiệp nên biết rằng họ có thể định đoạt mức lãi cho trường hợp chậm thanh toán. Cụ thể, họ có thể định đoạt song phương với đối tác về mức lãi và mức lãi này có thể cao hơn hay thấp hơn mức lãi mà pháp luật quy định. Khi bị chậm thanh toán, bên bị chậm thanh toán cũng có thể định đoạt mức lãi chậm trả nhưng chỉ theo hướng là thấp hơn so với quy định hay với thỏa thuận. Tùy từng hoàn cảnh mà doanh nghiệp định đoạt tương ứng nhằm bảo vệ lợi ích của mình. * Định đoạt về thời gian tính lãi Theo quy định trên, lãi được tính “tương ứng với thời gian chậm trả”. Điều đó có nghĩa là chừng nào khoản tiền không được thanh toán thì lãi được tính từ thời điểm chậm thanh toán đến thời điểm thanh toán xong. Tuy nhiên, trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài chỉ tính lãi từ khi chậm thanh toán “đến ngày đưa vụ việc ra xét xử”. Sở dĩ Hội đồng Trọng tài theo hướng này vì “Nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi từ ngày 17/07/2013 đến ngày đưa vụ việc ra xét xử”. Ở đây, người bị chậm thanh toán đã định đoạt khác với quy định của pháp luật: Pháp luật cho phép tính lãi từ thời điểm chậm thanh toán đến khi thanh toán xong nhưng người bị chậm thanh toán chỉ yêu cầu tính lãi từ khi chậm thanh toán đến thời điểm giải quyết vụ tranh chấp. Quyền định đoạt (đơn phương) này có lợi cho người có nghĩa vụ hơn so với quy định của pháp luật nên đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Như vậy, pháp luật đã dự liệu thời gian tính lãi chậm trả nhưng thời gian này có thể được định đoạt khác. Khi người bị chậm thanh toán đơn phương xác định thời gian khác quy định thì sự định đoạt này được chấp nhận nếu không ảnh hưởng tiêu cực tới lợi ích của bên có nghĩa vụ. Đây là điểm mà doanh nghiệp nên biết để có những ứng xử tương ứng với lợi ích của mình (theo pháp luật hay định đoạt khác có lợi cho người có nghĩa vụ).

#041 | Cấn trừ lãi dư do quá cao vào nợ gốc ở thời điểm thanh toán

#041 | Cấn trừ lãi dư do quá cao vào nợ gốc ở thời điểm thanh toán

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Một cá nhân (Nguyên đơn) cho một Công ty (Bị đơn) vay 37.782.000.000 VND với mức lãi theo thỏa thuận là 24%/năm. Bị đơn đã trả cho Nguyên đơn 5.210.000.000 VND tiền lãi được tính theo thỏa thuận cho một giai đoạn và sau đó không trả gốc và lãi nữa nên Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn yêu cầu thanh toán tiền gốc và tiền lãi còn thiếu. Hội đồng Trọng tài xác định mức lãi theo thỏa thuận là quá cao so với quy định nên Bị đơn đã trả lãi dư và cấn trừ phần dư này vào nợ gốc dẫn đến tiền làm phát sinh lãi ở các đợt sau giảm. Bài học kinh nghiệm : Việc cho vay có lãi mà người đi vay là doanh nghiệp khá phổ biến và vụ việc nêu trên là một ví dụ. Pháp luật Việt Nam theo hướng mức lãi do các bên thỏa thuận nhưng sự thỏa thuận đó có giới hạn. Cụ thể, Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “ Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng ” (mức lãi suất cơ bản mà Ngân hàng Nhà nước công bố lần cuối là 9%/năm). Bộ luật dân sự năm 2015 vẫn duy trì mức trần nhưng mức trần và cách thức quy định mức trần có khác biệt vì khoản 1 Điều 468 quy định “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay”. Thực tế, không hiếm trường hợp mức lãi theo thỏa thuận vượt quá mức trần và người vay trả lãi theo thỏa thuận là dư so với quy định. Trong vụ việc nêu trên, các bên thỏa thuận mức lãi bằng 24%/năm và người đi vay đã trả 5.210.000.000 VND tiền lãi trên cơ sở mức lãi đã thỏa thuận. Từ đó, Hội đồng Trọng tài xác định “Căn cứ quy định của pháp luật nêu trên, Nguyên đơn chỉ có thể yêu cầu bên vay tiền là Công ty trả 13,5%/năm trong thời hạn vay 1 năm nêu trên. Tính trên nợ gốc 37.782.000.000 VND, Công ty phải thanh toán 13,5%/năm, thành tiền là 5.100.057.000 VND tiền lãi. Theo trình bày của Nguyên đơn, Công ty đã thanh toán cho Nguyên đơn là 5.210.000.000 VND, so với khoản tiền lãi phải thanh toán. Do đó, Bị đơn đã thanh toán dư 109.943.000 VND”. Tại thời điểm giải quyết tranh chấp, người đi vay (Bị đơn) vẫn còn nợ gốc và nợ tiền lãi cho giai đoạn sau khi trả lãi nêu trên. Từ đó, câu hỏi đặt ra là tiền dư nêu trên sẽ được trả vào tiền lãi còn thiếu hay được trả vào tiền gốc chưa trả? Trả lời cho câu hỏi này kéo theo hệ quả quan trọng. Bởi lẽ, nếu ưu tiên trả vào tiền lãi thì tiền gốc vẫn còn nguyên nên sẽ tiếp tục làm phát sinh lãi trên khoản nợ gốc. Ngược lại, nếu ưu tiên thanh toán vào nợ gốc ở thời điểm trả lãi, tiền gốc sẽ giảm đi nên tiền gốc làm phát sinh lãi giảm cho giai đoạn sau (nên lãi cho giai đoạn sau giảm). Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng ưu tiên sử dụng tiền lãi trả dư vào tiền gốc. Cụ thể, trong vụ việc này, các bên có thỏa thuận cho giai đoạn chậm trả mức lãi cao hơn mức lãi trong hạn. Sau khi phân tích các quy định liên quan, Hội đồng Trọng tài xác định “lãi quá hạn bằng lãi suất vay do các bên thỏa thuận và được Hội đồng Trọng tài chấp nhận trong giới hạn là 13,5%/năm, cộng thêm mức lãi suất cơ bản là 9%, tổng cộng cũng là 22,5%/năm”. Từ đó, liên quan đến việc tính lãi chậm trả, Hội đồng Trọng tài không sử dụng tiền gốc ban đầu (37.782.000.000 VND) mà sử dụng tiền gốc ban đầu sau khi trừ tiền lãi trả dư (37.672.057.000 VND) với nhận xét “tiền lãi chậm trả cho khoản tiền gốc còn lại 37.672.057.000 VND đối với giai đoạn chậm trả từ ngày 25/06/2016 cho đến ngày ban hành Phán quyết trọng tài (31 tháng) với mức lãi là 22,5%/năm là 21.896.833.000 VND (làm tròn số)”. Hướng như nêu trên của Hội đồng Trọng tài là thuyết phục để tăng tính răn đe cho trường hợp cho vay lãi quá cao so với quy định. Hướng này cũng phù hợp với quy định hiện hành và đường lối giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao (trong một vụ việc liên quan đến vay có lãi theo thỏa thuận, Tòa án nhân dân tối cao đã xét rằng “ Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ xem có hay không có việc bà H đã trả lãi cho bà L hay trả lãi cho người nào khác. Trong trường hợp B ị đơn đã trả lãi cho Nguyên đơn, thì số tiền lãi đó lớn hơn so với tiền lãi áp dụng mức lãi suất theo quy định của pháp luật là bao nhiêu, từ đó đối trừ số tiền lãi chênh lệch vào khoản tiền nợ gốc tại thời điểm thanh toán lãi ”) [1] . Từ đó, các doanh nghiệp cần lưu ý trong việc thỏa thuận mức lãi cho vay và không nên thỏa thuận mức lãi vượt quá mức trần đã được pháp luật quy định; nếu mức lãi theo thỏa thuận quá cao so với quy định thì mức vượt quá cũng không được chấp nhận và khoản tiền lãi trả dư sẽ được ưu tiên trả vào nợ gốc ở thời điểm trả lãi nên khoản tiền gốc làm phát sinh lãi cho giai đoạn sau sẽ giảm.   [1] Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại, xem Đỗ Văn Đại , Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án , Sđd, Bản án số 82 - 85.

#040 | Chịu lãi do chậm thanh toán

#040 | Chịu lãi do chậm thanh toán

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Tây Ban Nha (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán). Nguyên đơn đã thanh toán một khoản tiền nhưng chưa nhận được hàng. Bên cạnh yêu cầu Bị đơn hoàn trả tiền đã thanh toán được Hội đồng Trọng tài chấp nhận, Nguyên đơn còn yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền lãi do chậm thanh toán. Bài học kinh nghiệm : Ở đây, Hội đồng Trọng tài chấp nhận yêu cầu tính lãi chậm trả của Nguyên đơn và vụ việc này giúp chúng ta làm rõ hai vấn đề mà doanh nghiệp nên lưu tâm. * Về mức lãi chậm trả Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “Nguyên đơn và Bị đơn không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Việc Bị đơn giữ khoản tiền 358.723,52 USD là không có cơ sở. Do đó, Bị đơn phải chịu lãi chậm trả tính trên số tiền 358.723,52 USD đang giữ của Nguyên đơn”. Vấn đề tiếp theo là Bị đơn phải chịu lãi chậm trả ở mức nào? Theo Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, “ trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác ”. Ở đây, mức lãi mà bên chậm thanh toán phải chịu là “ lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường ”. Tuy nhiên, thế nào là “ lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường” lại chưa được Luật Thương mại năm 2005 làm rõ. Về chủ đề này, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng “do các Bên thanh toán bằng USD, Hội đồng Trọng tài xét thấy cần lấy mức lãi nợ quá hạn đối với cho vay bằng USD tại thời điểm giải quyết tranh chấp của 03 Ngân hàng là Ngân hàng 11,25%/năm, Ngân hàng N 8,25%/năm và Ngân hàng T 8,7%/năm. Như vậy, mức lãi nợ quá hạn trung bình trên thị trường là 9,4%/năm (0,78%/tháng, 0,025%/ngày) và thấp hơn yêu cầu của Nguyên đơn nên Hội đồng Trọng tài chỉ chấp nhận mức lãi chậm trả là 0,78%/tháng (0,025%/ngày)”. Như vậy, theo Hội đồng Trọng tài, mức lãi chậm trả trên cơ sở Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 là “mức lãi nợ quá hạn đối với cho vay bằng USD tại thời điểm giải quyết tranh chấp của 03 Ngân hàng” tại địa phương. Trong nhiều vụ việc khác, Hội đồng Trọng tài thuộc VIAC cũng theo hướng này. Chẳng hạn, tại một Phán quyết trọng tài khác nêu “để xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán, Hội đồng Trọng tài căn cứ trên lãi suất nợ quá hạn trung bình đang áp dụng tại ba Ngân hàng lớn: Ngân hàng Q, Ngân hàng C và Ngân hàng N”. Ở đây, hướng của Hội đồng Trọng tài tương thích với hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005. Bởi lẽ, trong Quyết định số 07/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã từng xét rằng “Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng với quy định của pháp luật” và quyết định này ngày nay đã được phát triển thành Án lệ số 09/2016/AL. Do đó, khi yêu cầu một bên thanh toán lãi chậm trả, doanh nghiệp cần chuẩn bị xác định mức lãi chậm trả trung bình của ít nhất 03 ngân hàng tại địa phương. * Về thời gian tính lãi chậm trả Liên quan đến thời gian tính lãi, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “với nội dung theo đó bên bị vi phạm được yêu cầu lãi chậm trả cho khoảng thời gian “tương ứng với thời gian chậm trả ”, Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 cho thấy chừng nào nghĩa vụ thanh toán chưa được thực hiện thì lãi chậm trả vẫn phát sinh. Tuy nhiên, trong Đơn khởi kiện, Nguyên đơn chỉ yêu cầu tạm tính đến ngày nộp Đơn khởi kiện là ngày 10/10/2013 và, trong Bản luận cứ, Nguyên đơn cũng chỉ yêu cầu tính đến ngày nộp Đơn khởi kiện. Yêu cầu này là có lợi cho Bị đơn so với quy định của Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 nên được Hội đồng Trọng tài chấp nhận tính lãi đến ngày 10/10/2013”. Như vậy, chừng nào khoản tiền làm phát sinh lãi chưa được thanh toán thì vẫn làm phát sinh lãi. Trong vụ việc nêu trên, Nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi đến một thời điểm nhất định mà không tính đến thời điểm hoàn tất việc thanh toán nên Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn (tôn trọng sự định đoạt của Nguyên đơn đồng thời bảo vệ lợi ích cho Bị đơn). Với hướng này, bên được thanh toán gặp bất lợi vì thời gian tính lãi bị rút ngắn so với quy định. Để không bị thiệt thòi liên quan đến tính lãi, doanh nghiệp nên biết rằng chừng nào khoản tiền làm phát sinh lãi chưa được thanh toán thì khoản tiền này vẫn làm phát sinh lãi nên cần đưa ra yêu cầu tương thích để bảo vệ lợi ích của mình đối với người chậm thanh toán.

#039 | Buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán

#039 | Buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên bán) ký hợp đồng mua bán với Công ty Hàn Quốc (Bị đơn - Bên mua). Phía Việt Nam đã giao hàng theo đơn đặt hàng và yêu cầu phía Hàn Quốc thanh toán nhưng không được đáp ứng. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã buộc Bên mua phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Bài học kinh nghiệm : Không hiếm trường hợp hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán như hợp đồng mua bán, cho thuê tài sản, dịch vụ, vận chuyển… Từ hợp đồng này, một bên phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng đôi khi bên này không thực hiện việc thanh toán theo hợp đồng và vụ việc trên là một ví dụ. Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “Nguyên đơn đã thực hiện và hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo các đơn đặt hàng và chỉ thị giao hàng của Bị đơn vào ngày 23/07/2011. Theo thỏa thuận của các Bên tại Điều 3 của hợp đồng thì Bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán khoản tiền hàng theo giá trị hóa đơn trước ngày giao hàng (tức ngày 23/07/2011) nhưng Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Do đó, Bị đơn đã vi phạm Điều 3 của hợp đồng, vi phạm khoản 1, khoản 2 Điều 50 Luật Thương mại năm 2005. Hội đồng Trọng tài cho rằng yêu cầu của Nguyên đơn đòi lại số tiền hàng Bị đơn còn nợ là có căn cứ”. Luật Thương mại năm 2005 có quy định về buộc thực hiện đúng hợp đồng tại Điều 297. Cụ thể, khoản 1 và khoản 2 điều luật này quy định “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh” và “trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng”. Bên cạnh đó, khoản 5 quy định “trường hợp bên vi phạm là bên mua thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy định trong hợp đồng và trong Luật này”. Ở đây, Bên mua là bên vi phạm nghĩa vụ trả tiền và, theo quy định trên, Bên bán được yêu cầu Bên mua tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên, quy định trên vẫn chưa đủ tính bao quát vì còn những vi phạm khác chưa thấy đề cập đến như trường hợp bên thuê tài sản hay thuê dịch vụ không thanh toán tiền. Lúc này, chúng ta nên khai thác các quy định trong Bộ luật dân sự, nhất là Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự” và Điều 352 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ”. Trong vụ việc trên, Bên mua đã không thanh toán đúng như thỏa thuận nên Bên bán là bên có quyền lợi bị xâm phạm. Do đó, trên cơ sở các quy định trong Bộ luật dân sự nêu trên, Bên bán được yêu cầu Bên mua tiếp tục thực hiện nghĩa vụ dân sự. Nếu doanh nghiệp không được thanh toán là chủ thể khác như bên cho thuê tài sản, bên cung cấp dịch vụ, bên vận chuyển... hướng giải quyết tương tự cũng được vận dụng. Cụ thể, doanh nghiệp không được thanh toán được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Ngoài ra, doanh nghiệp bị vi phạm còn được yêu cầu biện pháp bổ sung như lãi chậm trả mà chúng ta sẽ thấy trong các chủ đề sau.

#038 | Điều kiện để chuyển giao quyền yêu cầu ràng buộc bên có nghĩa vụ

#038 | Điều kiện để chuyển giao quyền yêu cầu ràng buộc bên có nghĩa vụ

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty S (Bên cho mượn) cho Công ty D (Bị đơn - Bên mượn) mượn khuôn nhưng do hỏa hoạn khuôn bị hư hỏng nên Công ty D phải bồi thường cho Công ty S. Sau đó, Công ty S và Công ty Bảo hiểm V (Nguyên đơn - thế quyền) đã thống nhất lập ra Thỏa thuận chuyển giao như sau: Công ty S mong muốn chuyển giao và Công ty Bảo hiểm V mong muốn nhận các quyền của Công ty S để đòi Công ty D phải bồi thường thiệt hại. Theo Hội đồng Trọng tài, việc chuyển giao này ràng buộc Bên phải bồi thường. Bài học kinh nghiệm : Từ quan hệ hợp đồng, có nhiều nghĩa vụ được hình thành trong đó có nghĩa vụ bồi thường do vi phạm hợp đồng. Trong vụ việc trên, từ hợp đồng cho mượn tài sản, Bên mượn tài sản phải bồi thường thiệt hại cho Bên cho mượn tài sản. Từ nghĩa vụ này, hình thành một quyền yêu cầu bồi thường của Bên cho mượn. Sau đó, Bên cho mượn chuyển giao theo thỏa thuận quyền yêu cầu này cho người khác và câu hỏi đặt ra là việc chuyển giao này có ràng buộc Bên phải bồi thường không? Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “bằng việc xuất trình Thỏa thuận chuyển giao giữa Nguyên đơn và Bên cho mượn, Nguyên đơn đã chứng minh được tính xác thực của việc chuyển quyền đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại của Bên cho mượn cho Nguyên đơn. Thêm nữa, bằng Thông báo đề ngày 29/11/2013, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn rằng Bên cho mượn và Nguyên đơn đã ký kết Thỏa thuận chuyển giao quyền đề ngày 06/12/2012. Căn cứ Điều 314 Bộ luật dân sự năm 2005, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bên cho mượn và Nguyên đơn đã tuân thủ các quy định của luật pháp và vì vậy không chấp nhận quan điểm của Bị đơn rằng Bị đơn có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ đối với Nguyên đơn với tư cách người nhận chuyển giao quyền”. Như vậy, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng việc chuyển giao quyền yêu cầu nêu trên ràng buộc người có nghĩa vụ (Bên mượn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tài sản mượn bị hư hỏng). Hướng giải quyết này là phù hợp với quy định hiện hành. Cụ thể: Thứ nhất , việc chuyển giao trên đã đáp ứng các điều kiện về chuyển giao và cụ thể là các quy định về chuyển giao quyền yêu cầu tại Điều 309 (trường hợp được chuyển giao) và Điều 310 (hình thức của thỏa thuận chuyển giao) Bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự năm 2015 vẫn giữ nội dung quy định về trường hợp được chuyển giao tại Điều 365 nhưng đã bỏ quy định về hình thức của thoả thuận chuyển giao. Thứ hai , việc chuyển giao quyền yêu cầu không làm ảnh hưởng tới quyền lợi của bên có nghĩa vụ nên không cần sự đồng ý của bên có nghĩa vụ [1] . Tuy nhiên, để việc chuyển giao này ràng buộc bên có nghĩa vụ, việc chuyển giao phải được thông báo cho bên có nghĩa vụ: “Người chuyển giao quyền yêu cầu phải báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu” (Điều 309 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 365 Bộ luật dân sự năm 2015) [2] . Thực tế việc chuyển giao quyền yêu cầu đã được gửi đến bên có nghĩa vụ bồi thường nên bên có nghĩa vụ chịu sự ràng buộc của việc chuyển giao. Từ vụ việc trên, chúng ta thấy việc chuyển giao nghĩa vụ ràng buộc người có nghĩa vụ cho dù không có sự đồng ý của người có nghĩa vụ nếu việc chuyển giao được tiến hành phù hợp với quy định và việc chuyển giao được thông báo tới bên có nghĩa vụ. Doanh nghiệp có nghĩa vụ cần biết hướng giải quyết trên để ứng xử phù hợp với quy định về chuyển giao quyền yêu cầu     [1] Điều 309 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 365 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ”. [2] Khoản 1 Điều 314 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 369 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “trong trường hợp bên có nghĩa vụ không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu hoặc người thế quyền không chứng minh về tính xác thực của việc chuyển giao quyền yêu cầu thì bên có nghĩa vụ có quyền từ chối việc thực hiện nghĩa vụ đối với người thế quyền”.

#037 | Xác định sự tồn tại của chuyển giao quyền

#037 | Xác định sự tồn tại của chuyển giao quyền

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Bà T quốc tịch Việt Nam (Nguyên đơn) ký hợp đồng mua bán cát với Công ty Singapore (Bị đơn). Nguyên đơn đã chỉ định nhà cung cấp cát cho Bị đơn. Một nhà cung cấp đã giao cát cho Bị đơn và thỏa thuận với Nguyên đơn theo hướng Nguyên đơn được toàn quyền thực hiện việc yêu cầu Bị đơn thanh toán khoản tiền còn thiếu, tự thu hồi công nợ, giải quyết những vấn đề phát sinh trong tương lai từ các đợt giao hàng. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã vận dụng quy định về chuyển giao quyền yêu cầu để giải quyết quan hệ giữa Nguyên đơn và Bị đơn. Bài học kinh nghiệm : Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự và trong nghĩa vụ dân sự thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện để hưởng được lợi ích mong đợi. Chẳng hạn, hợp đồng mua bán làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền và trong nghĩa vụ này bên bán được quyền yêu cầu bên mua thực hiện nghĩa vụ trả tiền để bên bán được hưởng khoản tiền mong đợi. Trong pháp luật Việt Nam có chế định Chuyển giao quyền yêu cầu được quy định tại Điều 309 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thoả thuận” và “khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu”. Quy định này được duy trì trong Bộ luật dân sự năm 2015 tại Điều 365 và thường xuyên được vận dụng trong thực tế và vụ việc trên là một ví dụ. Ở đây, sau khi ký hợp đồng mua bán cát, Nguyên đơn đã chỉ định Công ty TĐD cung cấp cát cho Bị đơn và doanh nghiệp này đã cung cấp cát cho Bị đơn. Theo Bị đơn, Bị đơn không có nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn và Bị đơn chỉ có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng với các nhà cung cấp. Bị đơn còn cho rằng việc cá nhân Nguyên đơn đứng tên làm người đại diện cho Công ty TĐD không đủ bằng chứng để chứng minh rằng Nguyên đơn có quyền yêu cầu Bị đơn thanh toán các hóa đơn từ các nhà cung cấp. Liên quan đến nhà cung cấp là Công ty TĐD, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “trong Biên bản làm việc ngày 25/11/2009 giữa Công ty TĐD và Nguyên đơn, Công ty TĐD đã ủy quyền cho Nguyên đơn được “ toàn quyền thực hiện việc yêu cầu H thanh toán khoản tiền còn thiếu, tự thu hồi công nợ, giải quyết những vấn đề phát sinh trong tương lai ” từ các đợt giao hàng mà Công ty TĐD đã cung cấp cho Bị đơn. Bị đơn cũng không phủ nhận các nghĩa vụ liên quan đến các hóa đơn số 0366, 0368 và 0369. Vì vậy, Bị đơn phải thanh toán tổng số tiền từ các hóa đơn này là 144.511,52 USD cho Nguyên đơn theo các quy định của Điều 309 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 50 Luật Thương mại năm 2005”. Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã áp dụng quy định về chuyển giao quyền yêu cầu để từ đó xác định “Bị đơn phải thanh toán tổng số tiền từ các hóa đơn này là 144.511,52 USD cho Nguyên đơn”. Thực ra, hoàn cảnh trong vụ việc tương đối phức tạp do quan hệ giữa các chủ thể chưa thực sự rõ. Bị đơn chắc chắn phải thanh toán số cát đã nhận từ Công ty TĐD nhưng phải thanh toán cho Nguyên đơn hay cho Công ty TĐD thì lại có tranh chấp. Ở hoàn cảnh này, có hai giả thuyết: Thứ nhất, nếu Bị đơn phải thanh toán cho Công ty TĐD và Công ty TĐD chỉ ủy quyền cho Nguyên đơn nhận tiền thì Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn nhưng lúc này Nguyên đơn chỉ nhận hộ, nhận giúp (tức nhận với tư cách người đại diện Công ty TĐD). Lúc này, quan hệ nghĩa vụ thanh toán vẫn chỉ giới hạn ở quan hệ giữa Công ty TĐD và Bị đơn; Nguyên đơn chỉ là người đại diện nhận giúp Công ty TĐD nên nếu Nguyên đơn có nghĩa vụ với Bị đơn thì hai nghĩa vụ này không thể bù trừ cho nhau vì chỉ tồn tại một nghĩa vụ giữa Bị đơn với Công ty TĐD và một nghĩa vụ giữa Bị đơn và Nguyên đơn nên không đủ điều kiện để bù trừ cho nhau (đã được nghiên cứu trong chủ đề khác). Thứ hai, nếu Bị đơn phải thanh toán cho Công ty TĐD và Công ty TĐD đã chuyển quyền yêu cầu cho Nguyên đơn thì lúc này quan hệ nghĩa vụ ban đầu giữa Bị đơn và Công ty TĐD đã chuyển thành quan hệ nghĩa vụ giữa Bị đơn và Nguyên đơn trong đó Bị đơn là người có nghĩa vụ và Nguyên đơn là người có quyền. Do đó, nếu Nguyên đơn có một nghĩa vụ cùng loại với Bị đơn thì hai nghĩa vụ này có thể bù trừ cho nhau (đã được nghiên cứu trong chủ đề khác). Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng có chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định của Bộ luật dân sự. Để không làm phát sinh tranh chấp và để không gây lúng túng trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp nên thận trọng trong các quan hệ như trên. Nếu doanh nghiệp có ý định chuyển giao quyền yêu cầu thì cần nói rõ là chuyển giao quyền yêu cầu còn nếu chỉ giới hạn ở ủy quyền đại diện nhận thực hiện nghĩa vụ thì cũng nên nói rõ là ủy quyền. Nếu làm được như trên, chúng ta sẽ hạn chế được tranh chấp.  

#036 | Điều chỉnh lại hợp đồng khi chính sách thay đổi

#036 | Điều chỉnh lại hợp đồng khi chính sách thay đổi

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty A (Nguyên đơn) ký hợp đồng xây dựng với Công ty B (Bị đơn). Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Nhà nước có điều chỉnh lương tối thiểu và phía Nguyên đơn yêu cầu điều chỉnh lại hợp đồng. Yêu cầu điều chỉnh lại hợp đồng đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng” (Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005), “mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng” (khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015). Với quy định này, về nguyên tắc những gì các bên đã thỏa thuận không được thay đổi mà không có sự đồng ý của hai bên. Tuy nhiên, nhiều hợp đồng được tiến hành trong thời gian dài và trong thời gian này Nhà nước có thể có những thay đổi về chính sách tác động trực tiếp việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này, hợp đồng có được điều chỉnh lại không? Trong vụ việc trên, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thực hiện việc điều chỉnh giá hợp đồng bằng việc điều chỉnh chi phí nhân công, chi phí máy thi công (phần nhân công). Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xác định “Hợp đồng và giá hợp đồng được ký vào thời điểm chi phí nhân công, máy thi công (phần nhân công) đã được tính với mức lương tối thiểu vùng là 880.000 VND/tháng”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “trong thời gian thực hiện hợp đồng, Nhà nước đã có sự thay đổi chính sách, chế độ tiền lương thông qua việc Chính phủ đã ban hành hai Nghị định 108/2010/NĐ-CP và Nghị định 70/2011/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng mới đối với người lao động áp dụng tại địa bàn Dự án là 1.200.000đ/tháng kể từ ngày 01/01/2011 đến ngày 30/09/2011 và 2.000.000đ/tháng kể từ ngày 01/10/2011 đến 31/12/2012 nên giá hợp đồng cần phải được điều chỉnh”. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã quyết định “buộc Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn giá trị điều chỉnh phần chi phí phân công, chi phí máy thi công (phần nhân công) cho khối lượng công việc đã được nghiệm thu thanh toán từ 01/01/2011 đến ngày 30/06/2012 theo hợp đồng là 9.710.429.000 VND ”. Ở trên, chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài điều chỉnh lại hợp đồng xuất phát từ việc Nhà nước thay đổi về chính sách tiền lương, chế độ tiền lương. Để làm được việc này, Hội đồng Trọng tài đã dựa vào hai loại cơ sở: Thứ nhất , Hội đồng Trọng tài đã dựa vào thỏa thuận của các Bên trong hợp đồng như Điều 8 của hợp đồng với nội dung “trường hợp có sự thay đổi thiết kế, chính sách chế độ của Nhà nước… và được cấp có thẩm quyền phê duyệt, giá trị hợp đồng sẽ được điều chỉnh tương ứng” và “điều chỉnh do Nhà nước có sự thay đổi chính sách, chế độ: thay đổi tiền lương, thay đổi giá nguyên vật liệu do Nhà nước quản lý giá hoặc thay đổi chế độ chính sách mới làm thay đổi mặt bằng giá đầu tư xây dựng công trình”. Thứ hai , Hội đồng Trọng tài đã dựa vào một số quy định của pháp luật như Luật xây dựng năm 2003 trong đó có quy định tại điểm b khoản 1 Điều 109 rằng “Hợp đồng trong hoạt động xây dựng chỉ được điều chỉnh khi được người quyết định đầu tư cho phép trong các trường hợp sau đây: Khi Nhà nước thay đổi các chính sách có liên quan”, Luật đấu thầu năm 2005 trong đó có quy định tại điểm a khoản 1 Điều 57 với nội dung “việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng theo đơn giá, hình thức hợp đồng theo thời gian và được thực hiện theo quy định sau đây: Trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng trực tiếp đến giá hợp đồng thì được điều chỉnh theo các chính sách này kể từ thời điểm các chính sách này có hiệu lực”. Ngoài ra, Hội đồng Trọng tài còn viện dẫn văn bản trả lời của Bộ xây dựng, Bộ tư pháp cho biết hướng điều chỉnh hợp đồng. Như vậy, chúng ta thấy hợp đồng được giao kết hợp pháp đã được điều chỉnh lại và sự điều chỉnh này ràng buộc các Bên trong hợp đồng. Hội đồng Trọng tài đã dựa vào thỏa thuận của các Bên cũng như quy định của pháp luật nhưng thực ra, các quy định nêu trên cho phép điều chỉnh hợp đồng mà không cần có sự thỏa thuận của các Bên. Tuy nhiên, việc các Bên thỏa thuận về việc điều chỉnh lại hợp đồng càng làm cho việc điều chỉnh lại hợp đồng dễ được triển khai. Vì thế, doanh nghiệp nên mạnh dạn đưa các nội dung cho phép điều chỉnh lại hợp đồng vào chính hợp đồng của mình bên cạnh những quy định cho phép điều chỉnh hợp đồng đã trích dẫn ở trên. Quốc hội đã ban hành Luật xây dựng mới năm 2014 và vẫn giữ lại quy định theo hướng cho phép điều chỉnh lại hợp đồng mà không cần có sự thỏa thuận của các bên tại Điều 143 theo đó “Điều chỉnh hợp đồng xây dựng gồm điều chỉnh về khối lượng, tiến độ, đơn giá hợp đồng và các nội dung khác do các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Điều chỉnh hợp đồng xây dựng chỉ được áp dụng trong thời gian thực hiện hợp đồng. Các trường hợp được điều chỉnh hợp đồng xây dựng: a) Do các bên thỏa thuận trong hợp đồng phù hợp với các quy định của Luật này và pháp luật khác có liên quan; b) Khi Nhà nước thay đổi các chính sách làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp các bên hợp đồng có thỏa thuận khác ”. Bộ luật dân sự năm 2015 đã kế thừa các quy định trên và có quy định chung tại Điều 420 về Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Đây là những quy định cho phép điều chỉnh lại hợp đồng khi Nhà nước có sự thay đổi chính sách và doanh nghiệp nên biết để bảo vệ quyền lợi của mình.

  • VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI