Trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại

#098 | Người chịu trách nhiệm về hàng thiếu so với hợp đồng

#098 | Người chịu trách nhiệm về hàng thiếu so với hợp đồng

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán) để mua cao su. Hàng đã được chuyển sang Trung Quốc cho Bên mua nhưng Bên mua cho rằng có việc thiếu hàng. Liên quan đến người chịu trách nhiệm về thiếu hàng, Hội đồng Trọng tài xác định thuộc trách nhiệm của Bên bán. Bài học kinh nghiệm : Có thể xảy ra trường hợp Bên bán và Bên mua giao nhận hàng thông qua người vận chuyển nhưng sau đó hàng bị thiếu. Trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng? Trong vụ việc trên, Bên bán là Việt Nam, Bên mua là Trung Quốc và hàng được vận chuyển từ Việt Nam sang Trung Quốc qua đường biển. Chứng thư giám định kết luận tình trạng bên ngoài container bình thường và trước khi mở 02 containers, các cặp chì (seals) của 02 containers đều còn nguyên, chưa bị đứt (intack), và số các cặp chì đều phù hợp với chứng từ giao hàng nhưng, khi mở 02 containers, giám định viên và hải quan sở tại thấy hàng được xếp từ cuối containers ra đến cửa, nhưng nhìn từ sàn lên nóc containers thì chỉ có một nửa container là có hàng và hàng không được xếp đầy container. Trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng? Theo Hội đồng Trọng tài, “việc đếm hàng, chất xếp hàng, đóng hàng vào container và niêm chì cho container do Bị đơn làm. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm về tình trạng thiếu hụt số lượng và trọng lượng hàng hóa trong các containers này khi các containers được dỡ xuống cảng đích trong điều kiện còn nguyên niêm chì”. Ngoài r Tình tiết sự kiện : Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán) để mua cao su. Hàng đã được chuyển sang Trung Quốc cho Bên mua nhưng Bên mua cho rằng có việc thiếu hàng. Liên quan đến người chịu trách nhiệm về thiếu hàng, Hội đồng Trọng tài xác định thuộc trách nhiệm của Bên bán. Bài học kinh nghiệm : Có thể xảy ra trường hợp Bên bán và Bên mua giao nhận hàng thông qua người vận chuyển nhưng sau đó hàng bị thiếu. Trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng? Trong vụ việc trên, Bên bán là Việt Nam, Bên mua là Trung Quốc và hàng được vận chuyển từ Việt Nam sang Trung Quốc qua đường biển. Chứng thư giám định kết luận tình trạng bên ngoài container bình thường và trước khi mở 02 containers, các cặp chì (seals) của 02 containers đều còn nguyên, chưa bị đứt (intack), và số các cặp chì đều phù hợp với chứng từ giao hàng nhưng, khi mở 02 containers, giám định viên và hải quan sở tại thấy hàng được xếp từ cuối containers ra đến cửa, nhưng nhìn từ sàn lên nóc containers thì chỉ có một nửa container là có hàng và hàng không được xếp đầy container. Trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng? Theo Hội đồng Trọng tài, “việc đếm hàng, chất xếp hàng, đóng hàng vào container và niêm chì cho container do Bị đơn làm. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm về tình trạng thiếu hụt số lượng và trọng lượng hàng hóa trong các containers này khi các containers được dỡ xuống cảng đích trong điều kiện còn nguyên niêm chì”. Ngoài ra, Hội đồng Trọng tài còn xác định “khi trên B/L ghi rõ Shipper’s load, stow, count and seal” và containers được người vận chuyển giao cho người nhận hàng tại cảng đích trong điều kiện còn nguyên kẹp chì (seal intact) mà hàng trong các containers bị thiếu về số lượng thì người xếp hàng (trong trường hợp này là người bán) phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hụt này”. Trong vụ việc trên, có ba chủ thể liên quan đến số lượng hàng có tranh chấp là Bên bán, Bên mua và Bên vận chuyển. Tuy nhiên, không có thông tin nào cho thấy có lỗi của phía Bên vận chuyển vì tình trạng lúc nhận và tình trạng lúc giao hàng là như nhau. Do đó, phần trách nhiệm chỉ còn lại là thuộc Bên bán hay Bên mua. Ở đây, Bên bán là người đưa hàng vào containers và khi nhận containers thì hàng còn thiếu nên Hội đồng Trọng tài xác định Bên bán chịu trách nhiệm về hàng thiếu là thuyết phục. Đây là bài học hữu ích cho các doanh nghiệp tiến hành mua bán nhưng có trung gian là người vận chuyển. a, Hội đồng Trọng tài còn xác định “khi trên B/L ghi rõ Shipper’s load, stow, count and seal” và containers được người vận chuyển giao cho người nhận hàng tại cảng đích trong điều kiện còn nguyên kẹp chì (seal intact) mà hàng trong các containers bị thiếu về số lượng thì người xếp hàng (trong trường hợp này là người bán) phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hụt này”. Trong vụ việc trên, có ba chủ thể liên quan đến số lượng hàng có tranh chấp là Bên bán, Bên mua và Bên vận chuyển. Tuy nhiên, không có thông tin nào cho thấy có lỗi của phía Bên vận chuyển vì tình trạng lúc nhận và tình trạng lúc giao hàng là như nhau. Do đó, phần trách nhiệm chỉ còn lại là thuộc Bên bán hay Bên mua. Ở đây, Bên bán là người đưa hàng vào containers và khi nhận containers thì hàng còn thiếu nên Hội đồng Trọng tài xác định Bên bán chịu trách nhiệm về hàng thiếu là thuyết phục. Đây là bài học hữu ích cho các doanh nghiệp tiến hành mua bán nhưng có trung gian là người vận chuyển.

#097 | Nghĩa vụ của bên bán khi hàng không đúng hợp đồng

#097 | Nghĩa vụ của bên bán khi hàng không đúng hợp đồng

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn) ký hợp đồng mua bán với Công ty Indonesia (Bị đơn). Bên bán Indonesia đã giao hàng nhưng Bên mua Việt Nam từ chối nhận hàng đồng thời yêu cầu Bên bán hoàn trả tiền cũng như chịu chi phí quản lý hàng. Quan điểm của Bên mua đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Hai bên đã ký hợp đồng mua bán và hợp đồng này là hợp pháp. Bên mua Việt Nam đã thanh toán một khoản tiền và Bên bán thông báo hàng hóa đã đến cảng Cát Lái. Trên cơ sở hồ sơ, Hội đồng Trọng tài xác định “Bị đơn đã giao hàng không đảm bảo chất lượng cho Nguyên đơn theo quy định của hợp đồng”. Từ thực trạng này, chúng ta thấy có những hệ quả khá nghiêm trọng cho Bên bán. Thứ nhất , theo khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, “bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận”. Tuy nhiên, trong vụ việc trên, Bên mua Việt Nam từ chối nhận hàng và yêu cầu Hội đồng Trọng tài xem xét. Cụ thể, trên cơ sở khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp với hợp đồng”, Hội đồng Trọng tài kết luận “Nguyên đơn (Bên mua) được quyền từ chối nhận lô hàng có tranh chấp”. Th ứ hai , theo Hội đồng Trọng tài, vi phạm của Bên bán được coi là “vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” vì “khi hàng không đạt chất lượng nhập khẩu thì Bên mua không đạt được mục đích trong việc giao kết hợp đồng nhập khẩu”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài xác định “yêu cầu của Nguyên đơn (xin hủy hợp đồng) là có cơ sở để được chấp nhận”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, trên cơ sở khoản 2 Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 về “Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng” theo đó “các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng”, “Bên mua (Nguyên đơn) được quyền yêu cầu Bên bán (Bị đơn) hoàn trả những gì Bên mua đã thanh toán cho Bên bán nên yêu cầu trên của Nguyên đơn (Bên mua) là có cơ sở được chấp nhận ở mức 95.800 USD tương đương với 1.995.035.000 VND”. Th ứ ba , trên cơ sở khoản 3 Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 về “Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng” theo đó “Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này” và Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” theo đó “trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”, Hội đồng Trọng tài buộc “Bên bán (Bị đơn) phải bồi thường cho Bên mua (Nguyên đơn) tổng thiệt hại nêu trên là 196.625.775 VND”. Thực tế, khoản tiền bồi thường này tương ứng với “các chi phí lưu container, thẩm định, bốc xếp, lệ phí chứng từ, vệ sinh container, vận chuyển, phí trọng tài và thù lao cho luật sư”. Như vậy, khi bên bán giao hàng không đúng hợp đồng làm cho bên mua không đạt được mục đích khi giao kết thì bên bán phải gánh chịu rất nhiều hệ quả: thứ nhất là phải nhận lại hàng hóa, thứ hai là phải hoàn trả tiền hàng đã nhận, thứ ba là phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc không thực hiện đúng hợp đồng. Điều đó cũng có nghĩa là Bên mua được quyền từ chối nhận hàng và đòi lại khoản tiền đã thanh toán [1] . Đây là những hệ quả (nghĩa vụ) rất nặng cho bên bán và cũng là quyền của bên mua. Do đó, bên bán cần cẩn trọng trong việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng và phải biết rằng họ có nhiều nghĩa vụ rất nặng nề trong trường hợp giao hàng không đúng hợp đồng.   [1] . Đây là hướng giải quyết trong một Phán quyết trọng tài khác. Cụ thể, sau khi khẳng định “Bị đơn đã vi phạm điều khoản chất lượng hàng hóa theo quy định của hợp đồng”, trên cơ sở Điều 39 Luật thương mại năm 2005 theo đó “Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp, không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hoá mà bên bán đã giao cho bên mua” , Hội đồng Trọng tài thuộc VIAC khẳng định “việc Nguyên đơn tuyên bố từ chối nhận hàng và đòi lại tiền hàng đã thanh toán là có căn cứ pháp luật”.

#096 | Bên mua có quyền từ chối thanh toán khi hàng không đúng hợp đồng

#096 | Bên mua có quyền từ chối thanh toán khi hàng không đúng hợp đồng

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Trung Quốc (Bị đơn - Bên bán). Phía Việt Nam đã nhận hàng nhưng hàng không đúng hợp đồng nên đã yêu cầu hủy hợp đồng để không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Bài học kinh nghiệm : Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 388 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015). Khi hợp đồng được giao kết hợp pháp thì các bên phải thực hiện trên cơ sở Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. Quy định này được kế thừa lại tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Đối với hợp đồng mua bán hợp pháp như nêu trên, bên mua có nghĩa vụ trả tiền đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, trong vụ việc nêu trên, bên mua đã từ chối thực hiện việc thanh toán và Hội đồng Trọng tài đã xác định “Bên mua (Nguyên đơn) không có trách nhiệm (thực hiện nghĩa vụ) thanh toán cho Bên bán (Bị đơn)”. Vậy, làm thế nào Bên mua đạt được kết quả như vừa nêu? Thực ra, để được kết quả như nêu trên, Hội đồng Trọng tài đã tiến hành các công việc sau: Thứ nhất , xác định Bên bán đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng. Cụ thể, Hội đồng Trọng tài khẳng định “đủ căn cứ để kết luận Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn không đúng chủng loại hàng hóa như đã thỏa thuận trong hợp đồng”. Thứ hai , “căn cứ quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bị đơn đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng” vì “mục đích của việc giao kết hợp đồng của Nguyên đơn là có được hàng (nguyên liệu) của Bị đơn để sử dụng ngay cho nhà máy của Nguyên đơn sản xuất sản phẩm bán cho khách hàng khác. Bị đơn đã vi phạm hợp đồng (vi phạm nghĩa vụ giao hàng: giao hàng không phù hợp với quy định của hợp đồng), việc này đã gây thiệt hại cho Nguyên đơn: không có nguyên liệu để sản xuất cung cấp cho khách hàng, nhiều khách hàng trì hoãn đơn đặt hàng chính thức, mất nhiều khách hàng. Hội đồng Trọng tài nhận định rằng việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn đã khiến cho Nguyên đơn không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Thứ ba , “căn cứ điểm b khoản 4 Điều 312 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài cho rằng yêu cầu áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng của Nguyên đơn trong trường hợp này là hợp lý và được chấp nhận”. Thứ tư , trên cơ sở quy định về hủy bỏ hợp đồng, Hội đồng Trọng tài kết luận Bên mua (Nguyên đơn) không có trách nhiệm thanh toán tiền theo hợp đồng. Như vậy, khi bên bán không giao hàng đúng như thỏa thuận thì sẽ kéo theo những hệ quả nhất định và một trong các hệ quả là bên mua được yêu cầu hủy bỏ hợp đồng để không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Đây là điều mà doanh nghiệp cần lưu ý: Đối với doanh nghiệp là bên bán thì cần giao hàng đúng thỏa thuận để không bị gánh chịu hệ quả của hủy bỏ hợp đồng (ngoài hệ quả nêu trên, Hội đồng Trọng tài còn khẳng định “Bị đơn phải chịu mọi chi phí liên quan tới việc lấy lại hàng hóa đã giao cho Nguyên đơn”). Còn đối với doanh nghiệp là bên mua, họ biết rằng họ có biện pháp phòng vệ rất hiệu quả là hủy bỏ hợp đồng để không phải thanh toán nếu việc giao hàng không đúng hợp đồng làm cho mục đích của họ không đạt được khi giao kết.

#095 | Bên mua có quyền từ chối nhận hàng không đúng hợp đồng

#095 | Bên mua có quyền từ chối nhận hàng không đúng hợp đồng

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Trung Quốc (Bị đơn - Bên bán). Phía Việt Nam đã nhận hàng nhưng hàng không đúng như hợp đồng nên từ chối nhận hàng. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn là từ chối nhận hàng. Bài học kinh nghiệm : Không hiếm trường hợp doanh nghiệp gặp phải hoàn cảnh hàng hóa giao cho doanh nghiệp không phù hợp với hợp đồng và vụ việc nêu trên là một ví dụ. Cụ thể, Hội đồng Trọng tài “kết luận rằng Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn hàng hóa không phù hợp với hợp đồng”. Từ việc Bên bán không giao hàng đúng như hợp đồng, Bên mua có được quyền từ chối nhận hàng không? Trong vụ việc trên, Nguyên đơn yêu cầu “buộc Bị đơn nhận lại lô hàng không đúng qui định hợp đồng” và đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Cụ thể, theo Hội đồng Trọng tài, “Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn hàng hóa không phù hợp với hợp đồng nói tại Mục 5, phần Phân tích sự việc trên đây, căn cứ khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài công nhận Nguyên đơn có quyền từ chối nhận lô hàng xếp trong Container số GLDU3172874 mà Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn”. Lưu ý thêm rằng hướng giải quyết trên cũng được vận dụng trong vụ việc khác tại VIAC. Chẳng hạn, sau khi khẳng định “Nguyên đơn đã thể hiện chủ định mua hàng để sản xuất giấy”, “Bị đơn đã biết và phải biết rằng mục đích mua hàng của Nguyên đơn là để sản xuất giấy” trong khi “Nguyên đơn nêu rằng thông số về độ trắng quá thấp (chỉ đạt 49,78% thay vì tối thiểu 82%), cộng với các thông số khác không đạt yêu cầu, đã làm cho hàng không sử dụng được vào mục đích làm giấy”, “căn cứ vào khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài cho rằng Nguyên đơn có quyền từ chối nhận hàng của Bị đơn”. Khi giải quyết, chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài viện dẫn khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005. Đây chính là cơ sở để Bên mua được từ chối nhận hàng hóa vì điều khoản này quy định “Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp với hợp đồng”. Như vậy, doanh nghiệp mua hàng biết rằng họ được quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa giao cho doanh nghiệp không phù hợp với hợp đồng. Đây là công cụ phòng vệ hiệu quả đối với tình huống hàng hóa chuyển cho doanh nghiệp nhưng lại không phù hợp với hợp đồng.

#094 | Bên mua có quyền nhận lại tiền khi không nhận được hàng

#094 | Bên mua có quyền nhận lại tiền khi không nhận được hàng

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty của Tây Ban Nha (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán). Nguyên đơn đã thanh toán một khoản tiền nhưng chưa nhận được hàng như thỏa thuận trong hợp đồng. Từ đó, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn hoàn trả tiền đã thanh toán và yêu cầu này được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế chúng ta không hiếm khi gặp trường hợp bên bán nhận tiền theo hợp đồng nhưng hàng lại không được giao và vụ việc trên là một ví dụ. Ở đây, hàng đã chuyển đến cảng Melilla. Bộ chứng từ thanh toán đã được Ngân hàng P tại Hà Nội chuyển cho Ngân hàng B (Ngân hàng của Bên mua). Nguyên đơn đã không tiến hành thanh toán để nhận bộ chứng từ để nhận hàng. Từ đó, Hội đồng Trọng tài đã xác định “Nguyên đơn xem như đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán” và Bị đơn được giữ lại 10% tiền ứng trước như các Bên đã thỏa thuận. Như vậy, Nguyên đơn (Bên mua) bị mất 10% khoản tiền ứng trước và vấn đề tiếp theo được đặt ra là Bên mua có được nhận lại tiền đã thanh toán không? Sau khi viện dẫn Điều 428 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán” và Điều 34, Điều 50 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng” và “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận”, Hội đồng Trọng tài theo hướng Bên mua được nhận lại số tiền đã thanh toán. Cụ thể, theo Hội đồng Trọng tài, “căn cứ vào các quy định trên, Bị đơn chỉ được quyền nhận tiền thanh toán khi giao hàng cho Nguyên đơn. Thực tế, Bị đơn đã chuyển hàng về Việt Nam và cho đến nay, vẫn không giao hàng cho Nguyên đơn. Tại hợp đồng, Nguyên đơn và Bị đơn chỉ thỏa thuận Bị đơn được quyền giữ lại 10% tiền ứng trước nếu Nguyên đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Việc Bị đơn giữ 358.723,52 USD của 02 đợt thanh toán trong khi không tiếp tục giao hàng là không cơ sở và vi phạm các quy định của pháp luật như trích dẫn ở trên. Do đó, yêu cầu của Nguyên đơn buộc Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền 358.723,52 USD là có căn cứ để chấp nhận”. Trong một vụ việc khác được giải quyết tại VIAC, Hội đồng Trọng tài cũng theo hướng nêu trên. Cụ thể, sau khi khẳng định “Nguyên đơn đã thể hiện chủ định mua hàng để sản xuất giấy”, “Bị đơn đã biết và phải biết rằng mục đích mua hàng của Nguyên đơn là để sản xuất giấy” nhưng “Nguyên đơn nêu rằng thông số về độ trắng quá thấp (chỉ đạt 49,78% thay vì tối thiểu 82%), cộng với các thông số khác không đạt yêu cầu, đã làm cho hàng không sử dụng được vào mục đích làm giấy”, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “tiền hàng đã được thanh toán đầy đủ cho Bị đơn và theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005, Nguyên đơn có quyền từ chối nhận hàng, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bị đơn phải hoàn trả số tiền hàng đã nhận là 179.724 USD cho Nguyên đơn”. Như vậy, khi hàng không được giao thì Bên mua được quyền nhận lại khoản tiền đã thanh toán cho Bên bán, tức Bên bán không được giữ lại khoản tiền này mà phải hoàn trả lại cho Bên mua. Đây là hướng giải quyết thuyết phục vì nếu Bên bán giữ lại khoản tiền đã thanh toán nhưng không giao hàng thì Bên bán trở thành người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.  

#093 | Bên bán được quyền từ chối giao hàng do có vi phạm việc thanh toán

#093 | Bên bán được quyền từ chối giao hàng do có vi phạm việc thanh toán

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) xác lập hợp đồng mua bán với Công ty Singapore (Bị đơn - Bên bán). Các Bên thỏa thuận thanh toán 100% bằng L/C không hủy ngang nhưng Bên mua đã không tuân thủ quy định về thanh toán. Khi giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bên bán được từ chối giao hàng xuất phát từ việc không tuân thủ quy định về thanh toán. Bài học kinh nghiệm : Theo Điều 428 Bộ luật dân sự năm 2005, “hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán” (được kế thừa lại tại Điều 430 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”). Từ quy định này chúng ta thấy bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua. Nghĩa vụ giao tài sản cũng được khẳng định tại khoản 1 Điều 34 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng”. Trong thực tế, không hiếm trường hợp bên mua vi phạm quy định về thanh toán và câu hỏi đặt ra là, trong trường hợp này, bên bán có được từ chối giao hàng không? Ở vụ việc trên, các Bên xác lập hợp đồng mua bán (hạt điều khô chưa bóc vỏ, xuất xứ Bờ biển Ngà). Trong hợp đồng, các Bên thỏa thuận thời hạn giao hàng là trước ngày 30/04/2009, được phép giao hàng từng phần. Cho rằng Bị đơn đã vi phạm hợp đồng nên Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra VIAC với yêu cầu: Giao số hàng còn lại cho Nguyên đơn. Về phía mình, sau khi khẳng định “trong quá trình thực hiện hợp đồng, Nguyên đơn đã đơn phương thay đổi nội dung L/C nhiều lần nhưng không được Bị đơn chấp thuận, nhất là mục 9 và 10 ở trường 46A”, Hội đồng Trọng tài cho rằng “Hội đồng Trọng tài đồng ý với quan điểm rằng: những sửa đổi của Nguyên đơn về điều kiện thanh toán trong L/C đối với tu chỉnh L/C lần 2, 3, 4 và Bị đơn chỉ chấp nhận một phần nội dung các tu chỉnh này đã làm cho L/C không có hiệu lực theo Điều 10 của UCP 600. Tuy nhiên, đến thời điểm ngày 07/07/2009, L/C của hợp đồng số 139/RCN/2008-09 và tu chỉnh L/C lần 1 cũng đã hết hiệu lực. Trong trường hợp này, Bị đơn có quyền không giao số hàng còn lại của hợp đồng cho Nguyên đơn khi điều khoản thanh toán được thực hiện trái với các qui định trong hợp đồng và không được sự chấp nhận của Bị đơn”. Ở đây, chúng ta thấy Hội đồng Trọng tài xác định Bên bán “có quyền không giao số hàng còn lại của hợp đồng” khi “điều khoản thanh toán được thực hiện trái với các qui định trong hợp đồng và không được sự chấp nhận của Bị đơn”. Hướng giải quyết như trên là thuyết phục nhằm bảo vệ quyền lợi cho Bên bán xuất phát từ việc vi phạm của Bên mua. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp biết rằng bên bán được quyền không giao hàng hóa như đã thỏa thuận trong trường hợp bên mua vi phạm các quy định về thanh toán mà các bên đã thỏa thuận. Ở đây, doanh nghiệp cũng biết rằng bên mua không được đòi hỏi bên bán thực hiện nghĩa vụ giao hàng nếu chính bên mua đã phá vỡ những quy định trong hợp đồng về thanh toán tiền hàng. Lúc này quyền không giao hàng như đã thỏa thuận trở thành công cụ tự vệ hữu hiệu cho bên bán.  

#092 | Bên bán được quyền thanh toán khi đã giao hàng

#092 | Bên bán được quyền thanh toán khi đã giao hàng

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn – Bên bán) ký hợp đồng mua bán cao su với Công ty Brazil (Bị đơn – Bên mua). Bên bán đã chuyển hàng cho Bên mua nhưng Bên mua không thanh toán cho Bên bán. Hội đồng Trọng tài quyết định Bên mua phải thanh toán cho Bên bán. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp Bên bán đã chuyển hàng hóa cho Bên mua nhưng Bên mua không thanh toán tiền cho Bên bán. Trong trường hợp này, Bên bán có được quyền yêu cầu Bên mua thanh toán tiền mua bán hàng hóa không? Trong vụ việc trên, sau khi ký kết hợp đồng, Bên bán vận chuyển hàng từ Cảng Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không được Bên mua trả tiền. Sau khi khẳng định “Hợp đồng mua bán số VS11-506 giữa Nguyên đơn với Bị đơn là hoạt động giao dịch mua bán hàng hóa, phù hợp với định nghĩa về mua bán hàng hóa được quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005” và “Về nội dung giao dịch giữa Nguyên đơn và Bị đơn cũng phù hợp với Điều 122 và 124 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về điều kiện và hình thức của giao dịch dân sự, Điều 24 Luật Thương mại năm 2005 nên có giá trị pháp lý để thực hiện”, Hội đồng Trọng tài xét rằng “yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn buộc Bị đơn phải thanh toán toàn bộ giá trị hàng hóa 54.400 USD (Năm mươi tư ngàn bốn trăm Đô la Mỹ) mà Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn theo các chứng từ vận chuyển hàng hóa và xác nhận của cảng đến nêu trên là có căn cứ, được chấp nhận”. Hướng giải quyết của Hội đồng Trọng tài là thuyết phục. Bởi lẽ, pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng là pháp luật Việt Nam [1] trong khi đó “Bên mua phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm đã thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm giao tài sản” (khoản 1 Điều 438 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015) và “bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng” (khoản 1 Điều 50 Luật Thương mại năm 2005). Trong vụ việc sau đây, Hội đồng Trọng tài cũng theo hướng vừa nêu. Cụ thể, trước yêu cầu của Nguyên đơn (Bên bán) buộc Bị đơn (Bên mua) trả 50% còn lại của giá trị hàng hóa theo Phụ lục số 01, Hội đồng Trọng tài xét rằng “Nguyên đơn khẳng định đã giao đầy đủ Bộ chứng từ này cho Bị đơn và Bị đơn cũng xác nhận đã nhận đủ Bộ chứng từ. Như vậy người bán (tức Nguyên đơn) đã đáp ứng mọi điều kiện để nhận 50% tiền hàng còn lại theo đúng quy định tại Điều 4 của Phụ lục số 01. Việc Bị đơn không thanh toán số tiền 40.000 EUR này cho Nguyên đơn là Bị đơn đã vi phạm hợp đồng. Do đó, Hội đồng Trọng tài cho rằng có cơ sở để chấp nhận yêu cầu này của Nguyên đơn”. Như vậy, khi xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa, doanh nghiệp phải biết rằng nếu là Bên mua thì có nghĩa vụ thanh toán cho Bên bán còn nếu là Bên bán thì có quyền yêu cầu Bên mua thanh toán, nhất là khi hàng hóa đã được giao cho bên mua theo thỏa thuận.   [1] Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã xác định “trong hợp đồng, các Bên không có thỏa thuận về việc chọn pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp. Tranh chấp trong vụ tranh chấp 24/12HCM là tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 theo đó Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài..., nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng T rọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng T rọng tài cho là phù hợp nhất; căn cứ khoản 2 Điều 22 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC theo đó Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài.... trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp nhất, Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”.

#091 | Xác định việc thiếu hàng so với hợp đồng

#091 | Xác định việc thiếu hàng so với hợp đồng

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán) để mua cao su. Hàng đã được chuyển sang Trung Quốc cho Bên mua nhưng Bên mua cho rằng có việc thiếu hàng. Trên cơ sở kết quả giám định của một tổ chức tại Trung Quốc, Hội đồng Trọng tài xác định có việc thiếu hàng. Bài học kinh nghiệm : Trong hợp đồng mua bán hàng hóa có việc giao hàng từ bên bán sang bên mua. Về số lượng cần giao, khoản 1 Điều 34 Luật Thương mại năm 2005 quy định “bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng , chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng”. Quy định này cũng tương thích với khoản 1 Điều 412 Bộ luật dân sự năm 2005, theo đó “Việc thực hiện hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng , chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác”. Bộ luật dân sự năm 2015 cũng có quy định theo hướng tương tự tại khoản 2 Điều 279 theo đó “nếu là vật cùng loại thì phải giao đúng số lượng”. Trong thực tế, chúng ta đôi khi gặp trường hợp bên mua cho rằng thiếu hàng so với hợp đồng và việc xác định này là cần thiết để áp dụng các biện pháp tương ứng nếu có việc thiếu hàng thực sự. Trong vụ việc trên, sau khi hàng đến cảng dỡ hàng Qingdao, đại lý giao nhận vận tải của Nguyên đơn đã đến cảng làm thủ tục nhận hàng. 02 containers chứa đựng hàng được hải quan sở tại cân hàng theo quy định của Pháp luật hải quan Trung Quốc trước khi giao cho Người nhận hàng. Khi cân hàng, hải quan sở tại phát hiện trọng lượng hàng thiếu hụt trên 17 tấn so với chứng từ giao hàng. Do khác biệt lớn giữa trọng lượng khai báo trong chứng từ giao hàng với trọng lượng thực qua cân, 02 containers bị hải quan lưu giữ để mở ra kiểm tra. Chứng thư giám định do H kết luận tình trạng bên ngoài container bình thường và trước khi mở 02 containers, các seals của 02 container đều còn nguyên, chưa bị đứt (intack), và số các cặp chì đều phù hợp với chứng từ giao hàng, tuy vậy, khi mở 02 containers, giám định viên và hải quan sở tại thấy hàng được xếp từ cuối containers ra đến cửa, nhưng nhìn từ sàn lên nóc containers thì chỉ có một nửa container là có hàng và hàng không được xếp đầy containers. Ở đây, theo kết quả giám định, chỉ có 743 bành cao su được dỡ ra khỏi 02 container, dẫn đến tổng số hàng bị thiếu là 517 bành. Tuy nhiên, Bên bán (Bị đơn) cho rằng mình đã giao đúng và đủ hàng như quy định trong hợp đồng. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xác định “Chứng thư giám định của H cấp tại cảng dỡ hàng là phù hợp với quy định của Điều 6 hợp đồng cũng như phù hợp với quy định về cơ quan giám định hàng hư hỏng thiếu hụt ở cảng đích ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm lô hàng do chính P cấp. Vì vậy, Chứng thư giám định này là cuối cùng và có giá trị ràng buộc cả Nguyên đơn và Bị đơn. Nguyên đơn cũng đã tuân thủ đầy đủ và đúng các bước quy định về trình tự và thủ tục khiếu nại đòi bồi thường hàng hóa thiếu hụt quy định tại Điều 6 của hợp đồng”. Như vậy, trước sự bất đồng giữa các bên về việc hàng được giao có đầy đủ hay không, Hội đồng Trọng tài đã dựa vào kết quả giám định. Ở đây, hàng đang ở nước ngoài và tổ chức giám định là tổ chức nước ngoài nhưng vẫn được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Để chấp nhận kết quả trên, Hội đồng Trọng tài đã căn cứ vào Điều 6 của hợp đồng theo đó “nếu phát hiện chất lượng, quy cách phẩm chất, số lượng, trọng lượng không phù hợp với hợp đồng thì Người mua sẽ thông báo cho Người bán biết và Người mua có quyền khiếu nại Người Bán dựa trên cơ sở Giấy chứng nhận giám định do cơ quan giám định độc lập có uy tín cấp trong vòng 30 ngày kể từ khi hàng đến cảng đích, các bên cũng thỏa thuận rằng Người bán sẽ không chịu trách nhiệm về hư hỏng tổn thất nếu do nguyên nhân thuộc về trách nhiệm của chủ tàu hoặc người bảo hiểm”. Việc xác định hàng hóa có đúng số lượng so với hợp đồng thường được đối chất trực tiếp giữa các bên liên quan. Tuy nhiên, vụ việc trên cho thấy không có việc giao nhận trực tiếp nên đã dẫn tới khó khăn trong việc xác định. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã căn cứ vào giám định của một tổ chức để xác định và thực tế việc giám định của tổ chức này đã được dự liệu trong hợp đồng. Đây là bài học bổ ích cho việc giao nhận hàng và các bên trong hợp đồng nên có thỏa thuận minh thị về tổ chức giám định cũng như trình tự giám định để hạn chế những tranh chấp sau này về việc xác định hàng có đủ so với hợp đồng hay không.

#090 | Xác định xuất xứ của hàng hóa

#090 | Xác định xuất xứ của hàng hóa

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Malaysia (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) ký hợp đồng mua bán một bộ hệ thống sưởi ấm, thông gió và điều hòa không khí để lắp đặt trong Bệnh viện. Các Bên thỏa thuận xuất xứ hàng hóa là Malaysia và Hội đồng Trọng tài xác định hàng hóa phải được sản xuất tại Malaysia. Bài học kinh nghiệm : Xuất xứ hàng hóa là thuật ngữ quen thuộc đối với doanh nghiệp nhưng hiểu nội hàm khái niệm này như thế nào vẫn là điều chưa thực sự rõ trong thực tiễn và có thể làm phát sinh tranh chấp. Trong vụ việc trên, các Bên thỏa thuận tại Điều 1.3 “ Xuất xứ: Sản xuất tại Malaysia”. Theo đánh giá của Công ty giám định V, Một số thiết bị & nhóm thiết bị có nhãn thể hiện “Sản xuất tại Malaysia ", một số thiết bị & nhóm thiết bị có nhãn thể hiện “Sản xuất tại Trung Quốc" hoặc tên nhà sản xuất Trung Quốc, một số thiết bị & nhóm thiết bị có nhãn thể hiện “Sản xuất tại Mexico ", một số thiết bị & nhóm thiết bị có nhãn không thể hiện nước sản xuất. Nhãn trên tất cả các thiết bị được kiểm tra không thể hiện công nghệ và tiêu chuẩn sản xuất . Kết quả đánh giá cho thấy các thiết bị mà các Bên giao nhận thể hiện nơi sản xuất ở các nước khác nhau và câu hỏi đặt ra là các thiết bị trên có đáp ứng yêu cầu về “xuất xứ” mà các Bên đã thỏa thuận không? Theo Bên bán, không có sự khác biệt giữa quy định “ Xuất xứ: Sản xuất tại Malaysia ” và quy định “ Xuất xứ: Malaysia ”. Hợp đồng chỉ yêu cầu Thiết bị có xuất xứ tại Malaysia , chứ không phải hoàn toàn sản xuất tại Malaysia . Tuy nhiên, theo Bên mua, hợp đồng rất rõ ràng về vấn đề này khi quy định Thiết bị phải được “ sản xuất tại Malaysia ” nhưng Chứng thư giám định cho thấy một số bộ phận chủ chốt của thiết bị không được sản xuất tại Malaysia. Do đó, Bên mua cho rằng đây là sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Trước sự không thống nhất nêu trên, Hội đồng Trọng tài phải đánh giá. Việc đánh giá trên đòi hỏi phải giải thích hợp đồng và Hội đồng Trọng tài cũng theo hướng này khi cho rằng “đây chỉ là vấn đề giải thích Điều 1.3 của hợp đồng”. Kế tiếp, theo Hội đồng Trọng tài, “ngôn từ Điều 1.3 rõ ràng đòi hỏi thiết bị phải được sản xuất tại Malaysia chứ không chỉ là xuất xứ hoặc tới từ Malaysia . Sự hiện diện của các từ “được sản xuất” tại Điều này khiến Hội đồng Trọng tài không thể đi đến một kết luận khác. Trong một điều khoản hợp đồng ngắn gọn và rõ ràng quy định quy cách của thiết bị, không thể bỏ qua sự hiện diện của từ “được sản xuất”, từ này có nghĩa là “được chế tạo” hoặc "được sản xuất”. Nói rằng Điều 1.3 này chỉ yêu cầu thiết bị tới từ Malaysia mặc dù thiết bị có thể được sản xuất tại Việt Nam, Trung Quốc hoặc một nơi nào khác là bỏ qua ý nghĩa rõ ràng của từ “được sản xuất”, và Hội đồng Trọng tài không thể làm như vậy theo luật Singapore, luật Việt Nam hoặc thậm chí theo lẽ thường. Vì vậy Hội đồng Trọng tài không đồng ý với biện luận của Nguyên đơn rằng không có sự khác biệt giữa quy định “ Xuất xứ: Sản xuất tại Malaysia” và quy định “ Xuất xứ: Malaysia ”. Các từ “sản xuất tại” rất quan trọng trong Điều khoản này và phải mang ý nghĩa rõ ràng và thông thường. Do vậy, Hội đồng Trọng tài thấy rằng Điều 1.3 của hợp đồng đòi hỏi thiết bị phải được sản xuất tại Malaysia , chứ không chỉ cần có nơi xuất xứ là Malaysia ”. Như vậy, trước bất đồng của các Bên về khái niệm “xuất xứ” của hàng hóa, Hội đồng Trọng tài đã giải thích và đi đến kết luận “xuất xứ” tại Malaysia ở đây được hiểu là “sản xuất” tại Malaysia . Nói cách khác, trên cơ sở nội dung của hợp đồng, khái niệm “xuất xứ” từ một địa điểm được hiểu là “sản xuất” tại địa điểm đó. Hướng giải quyết này cũng phù hợp với khoản 14 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó”. Từ vụ việc này, doanh nghiệp xác lập giao dịch có đề cập tới vấn đề xuất xứ cần thận trọng trong việc làm rõ nội hàm của từ “xuất xứ” để hạn chế những tranh chấp không cần thiết mặc dù thuật ngữ này được sử dụng rất phổ biến trong đời sống như chúng ta đã thấy trong vụ việc nêu trên. Trong hợp đồng cần tránh những thuật ngữ dẫn tới cách hiểu khác nhau về xuất xứ hàng hóa và cần có những quy định rõ ràng về xuất xứ đối với toàn bộ hàng hóa hay đối với từng bộ phận của hàng hóa nếu các bên muốn đề cập tới nội dung này trong hợp đồng.  

  • VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI